CHÍNH PHỦ |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số:
34/NQ-CP |
Hà
Nội, ngày 25 tháng 3 năm 2021 |
VỀ BẢO ĐẢM AN NINH LƯƠNG
THỰC QUỐC GIA ĐẾN NĂM 2030
CHÍNH
PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính
phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ
chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22 tháng 11 năm 2019;
Căn cứ Nghị định số 138/2016/NĐ-CP ngày
01 tháng 10 năm 2016 của Chính phủ ban hành Quy chế làm việc của Chính phủ;
Căn cứ Kết luận số 81-KL/TW ngày 29 tháng 7
năm 2020 của Bộ Chính trị về “Bảo đảm an ninh lương thực quốc gia đến năm 2030”;
Theo đề nghị của Bộ trưởng
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
QUYẾT
NGHỊ:
Vấn đề an ninh lương thực
(bao gồm lương thực, thực phẩm) luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm,
chỉ đạo, nhằm bảo đảm an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Sau
hơn 10 năm (2009 - 2019) thực hiện Kết luận số 53-KL/TW của Bộ Chính trị (khóa
X) về Đề án An ninh lương thực quốc gia đến năm 2020 đã đạt được những thành
tựu quan trọng, nổi bật là: Bảo đảm vững
chắc an ninh lương thực quốc gia trong mọi tình huống, góp phần quan trọng ổn
định kinh tế - chính trị - xã hội và phát triển đất nước, nhất là khi có biến
động khủng hoảng kinh
tế thế
giới và tác động của đại dịch Covid-19; tham gia vào nguồn cung lương thực, thực phẩm cho thế giới.
Sản xuất lương thực, thực phẩm liên tục phát triển; sản lượng lúa tăng từ 39,17
triệu tấn lên 43,45 triệu tấn, bình quân lương thực tăng từ 497 kg/người/năm
lên trên 525 kg/người/năm, đưa Việt Nam vào nhóm nước hàng đầu về sản xuất
lương thực; sản lượng thịt hơi các loại tăng 1,3 lần, sữa các loại tăng 3,36
lần, trứng tăng 2,13 lần; sản lượng thủy sản tăng 1,7 lần. Tình trạng thiếu dinh dưỡng đã giảm xuống còn 10,8% năm 2019; đời sống
của nhân dân được cải thiện rõ rệt, đặc biệt là thu nhập của người dân nông
thôn tăng 3,65 lần. Hệ thống cơ sở hạ tầng sản xuất, lưu thông, dự trữ lương
thực, thực phẩm được nâng cấp, hiện đại hóa; các kênh phân phối không ngừng
được mở rộng và hoàn thiện, nâng
cao năng lực sản xuất, lưu thông và khả năng tiếp cận lương thực, thực phẩm cho
nhân dân.
Tuy nhiên, vấn đề an ninh
lương thực, thực phẩm nước ta vẫn còn một số hạn chế, yếu kém: Có lúc, có nơi
việc sản xuất chưa theo quy hoạch, dẫn đến còn dư thừa cục bộ về lương thực,
thực phẩm ảnh hưởng đến người sản xuất. Thu nhập của người trồng lúa còn thấp,
đời sống của một bộ phận còn khó khăn. Tổ chức sản xuất, chế biến, thương mại,
đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm còn nhiều bất cập. Tầm vóc, thể trạng
người Việt Nam được cải thiện, nhưng còn chậm. Đảm bảo an ninh lương thực, thực
phẩm cấp hộ gia đình một số nơi chưa vững
chắc; khả năng tiếp cận lương thực đa
dạng, kịp thời, đủ dinh dưỡng vẫn là thách thức lớn đối với
người dân vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi.
An ninh lương thực quốc gia
là vấn đề quan trọng của đất nước trước mắt cũng như lâu dài; để triển khai
thực hiện Kết luận số 81-KL/TW ngày 29 tháng 7
năm 2020 của Bộ Chính trị về “Bảo đảm an ninh lương thực quốc gia đến năm
2030”, Chính phủ ban hành Nghị quyết về bảo đảm
an ninh lương thực quốc gia đến năm 2030, với nội dung chủ yếu sau:
1. An ninh lương thực quốc
gia luôn là vấn đề thiết yếu, cấp bách khi nguồn cung và khả năng tiếp cận
lương thực đang chịu tác động lớn của biến đổi khí hậu, thiên tai, ô nhiễm môi
trường, dịch bệnh xuyên biên giới ngày càng khốc liệt, khó lường; quá trình
công nghiệp hóa, đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ.
2. An ninh lương thực quốc
gia phải gắn với cơ cấu lại
nền kinh
tế. Bảo đảm an ninh lương thực
cho người dân trong mọi tình huống
là trách
nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền và toàn xã hội; không chỉ tập trung vào
tính sẵn có, khả năng tiếp cận, mà
còn bảo đảm cân bằng dinh dưỡng, an toàn thực phẩm.
3. Việc giữ đất lúa là cần
thiết để bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, nhưng phải bảo đảm sinh kế, thu nhập cho người trồng
lúa, trên cơ sở phát huy nguồn lực của Nhà nước, nhân dân và các thành phần
kinh tế.
4. Gắn an ninh lương thực
với an ninh nguồn nước, bảo vệ môi trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững.
5. Ưu tiên nguồn lực cho
nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ
nhằm đa dạng hóa sản phẩm lương thực, thực phẩm bảo
đảm cân bằng dinh dưỡng, an toàn thực phẩm trong khẩu phần ăn của người dân.
1. Mục tiêu chung
Bảo đảm đủ lương thực, thực
phẩm cho tiêu dùng trong nước trong mọi tình huống và một phần cho xuất khẩu;
nâng cao thu nhập cho người dân để bảo đảm tiếp cận được lương thực chất lượng,
an toàn thực phẩm; từng bước nâng cao tầm vóc, thể lực, trí lực người dân Việt Nam.
2. Mục tiêu cụ thể
a) Bảo đảm nguồn cung lương
thực
Sử dụng linh hoạt quỹ đất lúa, nâng cao hiệu quả sử dụng đất lúa,
giữ ổn định 3,5 triệu ha đất
trồng lúa, hàng năm sản xuất ít nhất 35 triệu tấn lúa, làm nòng cốt bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng, chế biến, dự trữ và xuất khẩu. Phát triển rau đậu các loại với diện tích
1.2 - 1,3 triệu ha và sản lượng 23 - 24 triệu tấn; cây ăn quả với diện tích 1.3
- 1,4 triệu ha và sản lượng 16 - 17 triệu tấn; sản lượng thịt xẻ các loại 6,0 -
6,5 triệu tấn, sữa tươi 2,6 triệu tấn, trứng gia cầm 23 tỷ quả; sản lượng thủy
sản 9 - 10 triệu tấn...
b) Bảo đảm khả năng tiếp cận lương thực của người dân
Nông dân sản xuất lúa ở các
vùng sản xuất lúa hàng hóa tập trung quy mô lớn có lãi bình quân trên 35% so
với giá thành sản xuất. Thu nhập của người dân nông thôn cao hơn 2 lần năm
2020. Phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng, hệ thống lưu thông, phân phối để
tăng cơ hội tiếp cận lương
thực cho
người dân...
c) Bảo đảm nhu cầu về dinh
dưỡng và an toàn thực phẩm
Bảo đảm nhu cầu dinh dưỡng
với khẩu phần ăn cân đối, giảm tỷ trọng sử dụng gạo,
tăng sử dụng thịt, sữa, trứng, cá, rau, quả các loại góp phần nâng cao chất
lượng cuộc sống cho nhân dân, đặc biệt là trẻ em tuổi học đường. Nâng cao mức tiêu thụ calo lên
trên 2.500 Kcal/người/ngày; giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng của
trẻ em dưới 5 tuổi thể thấp còi còn dưới 19% và thể nhẹ cân còn dưới
10,5%; tỷ lệ béo phì của trẻ em dưới 5 tuổi ở nông thôn dưới 5% và thành thị dưới 10%.
III. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
1. Đẩy mạnh phát triển, cơ cấu lại sản xuất
lương thực, gắn với thị trường
- Cơ cấu lại trồng trọt
theo hướng sản xuất tập trung, quy mô lớn, trên cơ sở phát huy lợi thế vùng,
miền; gắn với bảo quản, chế biến, tiêu thụ
theo chuỗi giá trị, đáp ứng thị
trường và thích ứng với biến đổi khí hậu.
- Phát triển chăn nuôi theo
phương thức công nghiệp và bán công nghiệp, trang trại và hộ chăn nuôi chuyên
nghiệp; ứng dụng công nghệ cao, quy trình sản xuất tiên tiến, an toàn sinh học
và thân thiện với môi trường.
- Đa dạng hóa đối tượng,
phương thức nuôi trồng thủy sản theo hướng công
nghiệp và bán công nghiệp, chú trọng các đối tượng nuôi chủ lực, gắn với cấp mã
vùng, truy xuất nguồn gốc. Giảm khai thác thủy sản ven
bờ, phát triển khai thác hải sản xa bờ bền vững.
2. Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ
sản xuất lương thực
Tiếp tục đầu tư, xây dựng,
sửa chữa, nâng cấp hệ thống công trình thủy lợi, phòng chống thiên tai hiện
đại, đồng bộ; bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập, bảo đảm tưới tiêu
chủ động cho đất chuyên trồng lúa và tăng diện tích tưới cho cây trồng cạn.
Phát triển thủy lợi đa mục tiêu, ưu tiên đầu tư xây dựng công trình thủy lợi
phục vụ cho nuôi trồng thủy sản. Tập trung đầu tư phát triển cảng cá kết hợp
với khu neo đậu, tránh trú bão cho tàu cá.
- Tập trung nghiên cứu,
chọn tạo, phát triển các giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản có năng suất, chất
lượng cao, chống chịu được dịch bệnh và thích ứng với biến đổi khí hậu. Đối
với cây lúa, cây ăn quả
tập trung
chọn tạo các giống giàu dinh dưỡng, chịu mặn, chịu hạn, chịu úng. Nghiên cứu vắc xin vật
nuôi thế hệ mới phòng các bệnh nguy hiểm; phát triển công nghệ chế biến sâu các
sản phẩm vật nuôi đáp ứng thị trường trong nước và xuất khẩu.
- Xây dựng, phát triển các
vùng sản xuất tập trung, an toàn dịch bệnh, ứng dụng công nghệ cao, áp dụng quy
trình thực hành sản xuất tốt (GAP), gắn với cấp mã số vùng sản xuất, chỉ dẫn địa lý, truy xuất nguồn gốc.
- Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng
dụng cơ giới hóa, tự động hóa đồng bộ từ sản xuất đến thu hoạch, bảo quản, chế
biến.
- Thu hút, hỗ trợ doanh
nghiệp đầu tư nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ cao vào sản
xuất, chế biến, bảo quản lương thực, thực phẩm;
thúc đẩy hợp tác, liên kết sản
xuất theo chuỗi giá trị.
4. Đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
- Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo
nguồn nhân lực ngành nông nghiệp đáp ứng yêu cầu cơ cấu ngành nông nghiệp theo
hướng hiện đại, công nghệ cao, thông minh, hữu
cơ. Tăng cường thu hút, đào tạo chuyên gia, cán bộ kỹ thuật, công nhân nông nghiệp đảm bảo đủ năng lực tiếp thu, vận hành chuyển giao công nghệ mới trong sản xuất lương
thực, thực phẩm.
- Tiếp tục đào tạo nghề
nông nghiệp cho lao động nông thôn theo hướng phục vụ cơ cấu lại ngành và xây
dựng nông thôn mới; chú trọng đào tạo các ngành, nghề phát triển sản xuất, chế
biến, khoa học kỹ thuật, quản trị, kinh doanh
lương thực, thực phẩm.
5. Đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất
lương thực
- Sắp xếp, đổi mới các hình
thức tổ chức sản xuất; nâng cao năng lực và vai trò của các tổ chức của nông
dân trong sản xuất, chế biến lương thực, thực phẩm. Với vùng chuyên canh, ưu
tiên tổ chức lại sản xuất gắn với phát triển các sản phẩm chủ lực (lúa gạo, chăn nuôi, thủy sản...). Với các vùng không chuyên canh, tăng
quy mô, tích tụ, tập trung ruộng đất, hỗ trợ về giống, kỹ thuật.
- Hỗ trợ nông dân và các
hợp tác xã đẩy mạnh hợp tác, liên kết sản xuất với doanh nghiệp theo chuỗi giá trị, trong đó doanh nghiệp giữ vai trò
là “trụ cột”, nòng cốt, dẫn
dắt nhằm
góp phần bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và tăng thu nhập cho các thành viên.
Tăng cường ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp công nghệ cao, kinh tế tuần
hoàn, sản xuất nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ, nông sản dược liệu.
- Tiếp tục sắp xếp và nâng
cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước lĩnh vực lương thực, thực
phẩm. Tăng cường sự tham gia của các hội, hiệp hội ngành hàng trong các
chương trình phát triển
nông nghiệp,
nông thôn, đặc biệt là trong phát triển sản xuất, chế biến, tiêu thụ lương thực, thực phẩm.
- Đẩy mạnh liên kết vùng,
liên kết giữa các địa phương trong sản
xuất, chế biến lương thực, thực phẩm nhằm
khai thác lợi thế, tiềm năng của mỗi vùng, địa phương hướng tới phát triển sản
xuất hàng hóa quy mô lớn theo chuỗi
giá trị, tăng cường năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập quốc tế.
6. Đổi mới cơ chế chính sách bảo đảm an ninh
lương thực quốc gia
Hoàn thiện cơ chế, chính
sách đất đai, đầu tư, tài chính, tín dụng, thương mại hỗ trợ cho nông dân, địa
phương và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lương thực, thực phẩm, trong đó chú
trọng lúa gạo:
- Điều chỉnh chính sách hỗ
trợ các địa phương, hộ gia đình bảo vệ nghiêm ngặt diện tích đất lúa, nhất là
đất lúa 2 vụ; thực hiện chuyển đổi linh hoạt cơ cấu cây
trồng, vật nuôi trên đất lúa.
- Điều chỉnh, bổ sung cơ
chế chính sách bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các địa phương tập trung phát triển
công nghiệp với các địa phương chuyên trồng lúa; hỗ trợ thỏa đáng cho các địa phương, hộ nông dân giữ ổn
định đất trồng lúa.
- Có chính sách thu hút các
thành phần kinh tế đầu tư nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học và công
nghệ, phát triển hệ thống dự trữ và bảo quản,
chế biến lương thực, thực phẩm.
- Hoàn thiện cơ chế điều
hành xuất, nhập khẩu lương thực, thực phẩm linh hoạt, phù hợp với cơ chế thị
trường; kết hợp tốt giữa dự trữ lưu thông và dự trữ quốc
gia để bảo đảm đáp ứng yêu cầu cứu trợ lương thực, thực
phẩm trong trường hợp khẩn cấp.
- Lồng ghép thực hiện các
nhiệm vụ hỗ trợ phát triển sản xuất lương thực, thực phẩm để giảm nghèo trong
các Chương trình mục tiêu quốc gia, Chương trình đầu tư công. Rà soát, sửa đổi,
bổ sung chính sách trợ cấp gạo cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ
trợ gạo cho người dân vùng bị thiếu đói do ảnh
hưởng thiên tai, dịch bệnh.
- Hoàn thiện các quy định
pháp lý về thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm liên quan đến an ninh
lương thực, thực phẩm; xử lý
nghiêm các
hành vi của tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định về bảo đảm an toàn thực phẩm và an ninh lương
thực quốc gia.
- Đầu tư xây dựng, phát
triển hệ thống hạ tầng giao thông đồng bộ; đầu tư, nâng cấp hạ tầng bảo quản,
chế biến sau thu hoạch, nhất là các kho dự trữ, bảo quản, kho lạnh, kho chứa
lương thực, thực phẩm, đặc biệt là các kho dự
trữ lúa gạo quốc gia.
- Phát triển và hỗ trợ
thương mại lương thực, thực phẩm. Phát triển hạ tầng thương mại hiện đại và
truyền thống đồng bộ trên cơ sở tận dụng những ưu thế của cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0.
- Đầu tư, hoàn thiện hệ
thống lưu thông lương thực, thực phẩm tạo điều kiện cho người tiêu dùng có khả
năng tiếp cận trong mọi tình huống. Thực hiện tốt công tác dự báo về tình hình
sản xuất và tiêu thụ lương thực, thực phẩm. Nâng cao hiệu quả phối hợp quản lý
giữa dự trữ lưu thông và dự trữ quốc gia để phòng ngừa thiên tai và bình ổn
thị trường lúa gạo.
- Thực hiện cơ chế điều
hành xuất khẩu lương thực, thực phẩm linh hoạt, nhằm nâng cao khả năng cạnh
tranh và hiệu quả xuất khẩu; quản lý hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo của
thương nhân phù hợp với tình hình thị trường, tạo thuận lợi tham gia sâu vào
chuỗi giá trị toàn cầu.
8. Phát triển hệ thống thông tin, truyền
thông về an ninh lương thực quốc gia
- Tổ chức các hoạt động
tuyên truyền với các loại hình, phương thức, nội dung phù hợp với từng vùng,
miền và từng nhóm đối tượng về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về an ninh lương thực; quán triệt nhận thức về an ninh lương
thực quốc gia trong tình hình mới.
- Xây dựng, vận hành hệ
thống cơ sở dữ liệu, mạng thông tin an
ninh lương thực, thực phẩm toàn quốc để cung cấp thông tin, số liệu chính xác
về sản xuất, thu hoạch, dự trữ, thị trường và xuất khẩu lương thực, thực phẩm. Đồng thời thường xuyên cập nhật hệ thống
thông tin dự báo về cung - cầu lương thực, thực phẩm phục vụ quản lý, điều
hành.
- Đầu tư, xây dựng mạng
lưới cảnh báo, dự báo thiên tai, khí tượng thủy văn, theo dõi chặt chẽ quá trình biến đổi khí hậu, dịch bệnh trên cây trồng, vật
nuôi. Tại các địa phương, xây dựng hệ thống thông tin dự báo về sản xuất, chế
biến, tiêu thụ lương thực, thực phẩm để định hướng, chỉ đạo sản xuất. Nâng cao
vai trò của các Hiệp hội ngành hàng trong cung cấp thông tin thị trường, sản
phẩm lương thực, thực phẩm.
- Nâng cao hiệu quả công tác truyền thông giáo dục sức khỏe nhân dân. Phổ biến chế độ
dinh dưỡng, khẩu phần ăn phù
hợp cho từng nhóm đối tượng.
- Nâng cao hiệu quả quản
lý; sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, bền vững tài nguyên đất, nước, rừng; chấm dứt
tình trạng bỏ hoang đất nông nghiệp. Đầu
tư xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai và ứng dụng công nghệ viễn thám trong quản
lý, bố trí, sử dụng đất trồng lúa
tập trung, hiệu quả, bền vững.
- Tiếp tục đầu tư, nâng cấp
hệ thống hồ chứa nước, công trình, hệ thống kiểm soát mặn, ngọt, đập ngăn mặn
đảm bảo an ninh nguồn nước cho sản xuất, chế biến lương thực, thực phẩm; nâng
cao khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu và phòng chống thiên tai; áp dụng các biện pháp thâm canh
bền vững; bảo tồn và sử dụng bền vững các nguồn gen cây trồng, vật nuôi, thủy sản.
- Thực hiện tốt các quy
định của pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các hoạt động phát sinh chất thải, nước thải, khí thải và các chất gây ô
nhiễm môi trường khác; sử dụng hợp lý phân bón hóa học, hóa chất, thuốc bảo vệ
thực vật nhằm bảo vệ môi trường đất và nước ngầm.
10. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
an ninh lương thực
- Tăng cường hợp tác quốc
tế với các quốc gia, vùng lãnh thổ, các tổ chức lương thực quốc tế, đặc biệt
trong các lĩnh vực ảnh hưởng đến an ninh
lương thực, như biến đổi khí hậu, sử dụng nguồn
nước, kiểm soát dịch bệnh, khoa học công nghệ, thương mại xuất nhập khẩu...; đàm phán hài hòa hóa và công nhận lẫn
nhau về tiêu chuẩn, quy chuẩn, chất lượng,
an toàn thực phẩm.
- Tập trung tháo gỡ rào cản kỹ thuật trên cơ sở quản lý hiệu quả sản xuất và đáp ứng
tiêu chuẩn quốc tế, nhằm đẩy mạnh thị trường xuất khẩu lương thực,
nhất là các thị trường Việt Nam đã ký kết, tham gia các FTAs, trong đó có các
FTAs thế hệ mới và chất lượng cao như CPTPP, EVFTA, RCEP...
1. Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn chủ trì theo dõi, đôn đốc, giám sát tình hình thực hiện Nghị
quyết và định kỳ tổng hợp báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tình hình thực hiện Nghị
quyết.
Triển khai kế hoạch đầu tư,
nâng cấp kết cấu hạ tầng thủy lợi, phòng chống
thiên tai hiện đại, đồng bộ đảm bảo nguồn nước phục vụ sản xuất lương thực,
thực phẩm. Tổ chức thực hiện hiệu quả các Luật: Trồng trọt, Chăn nuôi, Thủy
sản; các Chiến lược phát triển: trồng trọt, chăn nuôi, thủy
sản, thủy lợi, phòng chống thiên tai, cơ giới hóa nông nghiệp và công nghiệp
chế biến nông sản và các Quy hoạch ngành cấp quốc gia lĩnh vực nông nghiệp, làm cơ sở định hướng và phân bổ
hợp lý, hiệu quả yếu tố
đầu vào
(đất đai, tài nguyên, vốn, nhân lực, khoa học...) phục vụ sản xuất lương thực,
thực phẩm quy mô lớn, cạnh tranh quốc tế. Nghiên cứu bổ sung, ban hành các chế
tài đủ sức răn đe để xử lý các tổ chức, cá nhân vi phạm các quy
định về bảo đảm an toàn thực phẩm và
an ninh lương thực quốc gia.
2. Bộ Tài nguyên và Môi
trường hàng năm có trách nhiệm xây dựng dự án điều tra, đánh giá thoái hóa ô
nhiễm, tiềm năng đất lúa theo từng vùng và kịp thời báo cáo Chính phủ để có biện pháp khắc phục; chủ trì, phối hợp với
các bộ, ngành có liên quan, các địa phương bảo đảm
sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, bền vững tài nguyên đất, nước; xây dựng, tổ chức
thực hiện quy hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, phân bổ diện tích đất lúa cả nước, vùng, địa phương
bảo đảm thống nhất, phù hợp về quy mô và địa bàn; xác định diện tích đất lúa
cần bảo vệ nghiêm ngặt phải đến từng tỉnh, huyện, xã; chấm dứt tình trạng bỏ hoang đất nông nghiệp.
3.
Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và các địa phương phát triển
hệ thống lưu thông, dịch vụ thương mại lương thực, thực phẩm tạo điều kiện cho
người tiêu dùng có khả năng tiếp cận trong mọi tình huống; trình Chính phủ ban
hành Nghị định thay thế Nghị định số 107/2018/NĐ-CP ngày
15 tháng 8 năm 2018 của Chính phủ về kinh doanh xuất khẩu gạo, tạo môi trường
thông thoáng cho doanh nghiệp và giải quyết tận gốc những bất cập trong thu
mua, tiêu thụ thóc gạo, sơ chế, chế biến sản phẩm thóc, gạo cho nông dân.
4. Bộ Khoa học và Công nghệ
xây dựng Chương trình khoa học và công nghệ quốc gia đến năm 2030; triển khai
thực hiện có hiệu quả các Chương trình: sản phẩm quốc gia; phát triển công nghệ
cao, đổi mới công nghệ quốc gia và các chương trình khoa học công nghệ khác cho
lĩnh vực nông nghiệp, trong đó có sản xuất, chế biến lương thực, thực phẩm.
5. Các Bộ: Giáo dục và Đào
tạo, Lao Động - Thương binh và Xã hội theo chức năng, nhiệm vụ được giao, chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lập kế
hoạch, xác định nhu cầu và nội dung đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục
vụ sản xuất nông nghiệp, trong đó có nhân lực cho sản xuất kinh doanh lương
thực, thực phẩm. Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các Bộ: Khoa học và Công
nghệ, Tài nguyên và Môi trường triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ
khoa học công nghệ, tổ chức hoạt động giáo
dục môi trường trong lĩnh vực nông nghiệp. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
triển khai có hiệu quả Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2030,
bảo đảm cứu trợ kịp thời người dân bị thiếu đói do
thiên tai và các trường hợp bất khả kháng.
6. Các Bộ: Lao Động -
Thương binh và Xã hội, Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn và Ủy ban Dân tộc lồng ghép thực hiện các nhiệm vụ hỗ trợ phát triển sản xuất lương
thực, thực phẩm để giảm nghèo
trong các
Chương trình mục tiêu quốc gia do bộ, ngành mình được giao là chủ chương trình.
7. Bộ Giao thông vận tải
chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành có liên quan, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tập trung
đầu tư xây dựng, phát triển hệ thống hạ tầng giao thông đồng bộ nhằm phát triển dịch vụ vận tải và logistics, bảo đảm
an toàn, nhanh chóng, tiện nghi, hiện đại, thân thiện với môi trường, đáp ứng kịp
thời, đầy đủ nhu cầu vận tải của đất nước, gắn với vùng sản xuất nông nghiệp
tạo điều kiện cho người dân tiếp cận lương thực, thực phẩm.
8. Bộ Y tế chủ trì xây
dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt: Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng
giai đoạn 2021 - 2030, Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khỏe nhân dân giai đoạn 2021 - 2030. Triển khai hiệu quả Chương trình sữa học đường, nâng cao tầm vóc người Việt,
nhất là tại các vùng dân tộc thiểu số, miền núi.
9. Bộ Nội vụ chủ trì, phối
hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoàn
thiện mô hình hệ thống các cơ quan và mối liên hệ, phối hợp quản lý nhà nước về an ninh lương thực; hoàn
thiện hệ thống tổ chức và hoạt động cơ quan quản lý nhà nước về nông nghiệp,
nông thôn từ trung ương tới cơ sở đảm bảo thông suốt, hiệu
lực, hiệu quả.
10. Bộ Ngoại giao chủ trì,
phối hợp với các Bộ: Công Thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tăng
cường hợp tác quốc tế, chỉ đạo các cơ quan đại diện ngoại giao, tham tán thương
mại, đặc biệt tại các địa bàn trọng điểm để phát triển, đa dạng hóa thị trường
xuất khẩu lương thực, thực phẩm; phát huy và tranh thủ lợi thế ngành hàng lúa
gạo và hàng nông sản Việt Nam có thế mạnh.
11.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành có liên quan tổ chức
thực hiện có hiệu quả Nghị định số 57/2018/NĐ-CP ngày
17 tháng 4 năm 2018 của Chính phủ về cơ chế, chính sách thu hút doanh nghiệp
đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn theo hướng hỗ trợ, ưu đãi hơn doanh nghiệp sản
xuất, chế biến, kinh doanh lương thực, thực phẩm quy mô lớn, gắn kết vùng
nguyên liệu, có hệ thống kho chứa, bảo quản.
12.
Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan nghiên cứu, đề xuất
sửa đổi Luật Ngân sách nhà nước
theo hướng tăng điều tiết phân bổ ngân sách nhà nước hỗ trợ các địa phương duy trì ổn định diện tích đất trồng lúa;
đầu tư phát triển hệ thống kho dự trữ quốc gia; hoàn thiện cơ chế phối hợp,
quản lý giữa dự trữ lưu thông và dự trữ quốc
gia; triển khai có hiệu quả Nghị định số 58/2018/NĐ-CP ngày
18 tháng 4 năm 2018 của Chính phủ về bảo hiểm
nông nghiệp nhằm giảm thiểu rủi ro, phát triển sản
xuất lương thực, thực phẩm bền vững.
13. Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng chủ động cân đối nguồn vốn để đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn phục vụ phát
triển nông nghiệp, nông thôn; đơn giản hóa thủ tục vay vốn, đa dạng hóa các sản
phẩm tín dụng; tăng cường kết nối giữa ngân hàng với doanh nghiệp, hợp tác xã
và người dân nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc,
tạo điều kiện thuận lợi trong tiếp cận vốn
tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là các chương
trình, dự án liên kết sản xuất gắn với chế biến, tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị, ứng dụng công nghệ cao và các dự
án đầu tư vào sản xuất, chế biến lương thực, thực phẩm.
14. Bộ Thông tin và Truyền
thông chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, các cơ quan thông tấn,
báo chí, các bộ, ngành trung ương và địa phương tổ chức phổ biến, tuyên truyền rộng rãi Nghị quyết, phù
hợp với từng vùng, miền và từng nhóm đối tượng.
15. Các bộ, ngành theo chức
năng, nhiệm vụ triển khai thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến bảo đảm an ninh
lương thực quốc gia. Tăng cường kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện nhiệm vụ
của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
16. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xây dựng
và phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế -
xã hội trên địa bàn, trong đó định hướng phát triển sản xuất lương thực, thực
phẩm hàng hóa, phát huy lợi thế địa phương; tổ chức cung ứng lương thực, thực phẩm cho nhân dân đảm bảo trong mọi
tình huống; quản lý chặt chẽ quỹ đất
sản xuất
nông nghiệp, nhất là đất lúa hai vụ cần bảo vệ nghiêm ngặt; thực hiện tốt các
cơ chế, chính sách của Nhà nước về sản xuất, tiêu thụ lương thực, thực phẩm.
Ban hành cơ chế, chính sách của địa phương khuyến khích phát triển sản xuất góp
phần đảm bảo an ninh lương thực trong phạm vi cả nước và của địa phương trong mọi tình huống.
|
0 Nhận xét