BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG |
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM |
Số: 55-NQ/TW |
Hà Nội, ngày 11 tháng 02 năm 2020 |
1. Sau 15 năm thực
hiện Kết luận số 26-KL/TW, ngày 24/10/2003 của Bộ Chính trị khoá IX về Chiến
lược và quy hoạch phát triển ngành điện lực Việt Nam và 10 năm thực hiện Nghị
quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2007 của Bộ Chính trị khoá X về định hướng Chiến
lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2050, ngành năng lượng nói chung và ngành điện lực nói riêng đã có bước phát
triển nhanh, tương đối đồng bộ trong tất cả các phân ngành, lĩnh vực; bám sát
định hướng và đạt được nhiều mục tiêu cụ thể đề ra.
Cung cấp năng lượng, đặc biệt là cung cấp điện cơ bản đáp ứng đủ
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội với chất lượng ngày càng được cải thiện.
Công nghiệp khai thác dầu khí và lọc hoá dầu phát triển mạnh; sản lượng khai
thác dầu khí tăng cao, hình thành được một số cơ sở lọc hoá dầu quy mô lớn. Đã
đầu tư xây dựng nhiều dự án mỏ than có công suất lớn; sản lượng khai thác than
thương phẩm tăng; thuỷ điện phát triển nhanh, gần đây điện gió và điện mặt trời
bắt đầu phát triển với tốc độ cao. Đầu tư xây dựng hạ tầng
cung cấp điện có sự phát triển mạnh mẽ, là điều kiện quan trọng cho việc bảo
đảm an ninh cung ứng điện. Đưa điện lưới quốc gia tới hầu hết mọi miền của đất
nước, kể cả vùng sâu, vùng xa, biên cương, hải đảo. Tiêu thụ năng lượng gia
tăng đáng kể, cơ cấu tiêu thụ năng lượng chuyển dịch theo hướng công nghiệp
hoá. Việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả ngày càng được quan tâm. Đã
tích cực thực hiện chuyển đổi ngành năng lượng sang hoạt động theo cơ chế thị
trường; huy động được nguồn lực lớn cho đầu tư phát triển với sự tham gia của
nhiều thành phần kinh tế, nòng cốt là các doanh nghiệp nhà nước. Ngành năng
lượng trở thành ngành kinh tế năng động, đóng góp rất quan trọng trong việc
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh tại
nhiều địa phương và đất nước.
2. Tuy vậy, ngành năng
lượng nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Mục tiêu bảo đảm an ninh năng
lượng quốc gia còn nhiều thách thức; các nguồn cung trong nước không đủ đáp ứng
yêu cầu, phải nhập khẩu năng lượng ngày càng lớn; nhiều dự án điện bị chậm so
với quy hoạch, kế hoạch; một số chỉ tiêu bảo đảm an ninh năng lượng đang biến
động theo chiều hướng bất lợi. Công tác quản lý, khai thác nguồn tài nguyên
năng lượng còn một số hạn chế. Hiệu quả khai thác, sử dụng năng lượng còn thấp.
Cơ sở hạ tầng ngành năng lượng còn thiếu và chưa đồng bộ. Trình độ công nghệ
trong một số lĩnh vực thuộc ngành năng lượng chậm được nâng cao, việc nội địa hoá và hỗ trợ thị trường từ các dự
án trong ngành năng lượng cho hàng hoá cơ khí chế tạo sản xuất trong nước còn
hạn chế.
Chất lượng nguồn nhân lực, năng suất lao động trong một số lĩnh vực còn thấp.
Thị trường năng lượng cạnh tranh phát triển chưa đồng bộ, thiếu liên thông giữa
các phân ngành, giữa phát điện với
truyền tải điện; chính sách giá năng lượng còn bất cập, chưa hoàn toàn phù hợp với cơ chế thị trường,
chưa tách bạch với chính sách an sinh xã hội. Một số dự án năng lượng
do doanh nghiệp nhà nước đầu tư còn thua lỗ; một số dự án năng lượng đầu tư ra nước ngoài
tiềm ẩn nhiều khả năng mất vốn. Công tác bảo vệ môi trường trong ngành năng
lượng có nơi, có lúc chưa được quan tâm đúng mức, gây bức xúc xã hội.
3. Những hạn chế, yếu kém
nêu trên do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ quan là
chủ yếu. Nhận thức về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của ngành năng lượng và mục
tiêu bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia chưa đầy đủ, quan tâm chưa đúng mức; một số vấn đề về phát triển năng lượng chậm được tổng kết cả về lý luận và thực tiễn; chậm giải quyết những vướng
mắc về
phương hướng phát triển các nguồn năng lượng và cụ thể hoá cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực năng lượng. Quy định pháp luật của ngành năng lượng nói chung
và từng phân ngành nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu thống nhất, chưa bảo đảm tính tương
thích với pháp luật quốc tế. Một số cơ chế, chính sách chưa phù hợp với cơ
chế thị trường, chưa thúc đẩy việc xây
dựng thị trường năng lượng cạnh tranh. Chính sách về đầu tư phát triển, quản lý
tài nguyên năng lượng còn thiếu, chưa đồng bộ. Chính sách khoa học và công nghệ
đối với ngành năng lượng chậm đổi mới. Một
số chiến lược, quy hoạch năng
lượng chậm được hoàn thiện, chưa sát với tình hình thực
tế và nguồn lực thực hiện, chưa thực sự gắn kết với các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương và một số ngành khác. Bộ máy quản lý nhà nước ngành năng lượng nói
chung và ngành điện nói riêng thiếu ổn định; việc phân công, phối hợp giữa các
bộ, ngành và địa phương trong một số trường hợp chưa rõ ràng, thiếu chặt chẽ.
Công tác nghiên cứu, dự báo còn yếu; công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện các
chính sách, pháp luật về năng lượng thiếu quyết liệt.
II- QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO,
MỤC TIÊU VÀ TẦM NHÌN
1. Quan điểm chỉ đạo
- Bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia là nền tảng, đồng
thời là tiền đề quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội. Ưu tiên phát triển
năng lượng nhanh và bền vững, đi trước một bước, gắn với bảo vệ môi trường sinh
thái, bảo đảm quốc phòng, an ninh, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Phát triển năng lượng quốc gia phải phù hợp với thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xu thế hội nhập quốc tế; nhanh chóng
xây dựng thị trường năng lượng đồng bộ, cạnh tranh, minh bạch, đa dạng hoá hình
thức sở hữu và phương thức kinh doanh; áp dụng giá thị trường đối với mọi loại
hình năng lượng. Khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các thành phần
kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân tham gia phát triển năng lượng; kiên quyết
loại bỏ mọi biểu hiện bao cấp, độc quyền, cạnh tranh không bình đẳng, thiếu
minh bạch trong ngành năng lượng.
- Phát triển đồng bộ, hợp lý và đa dạng hoá các loại hình năng
lượng; ưu tiên khai thác, sử dụng triệt để và hiệu quả các nguồn năng lượng tái
tạo, năng lượng mới, năng lượng sạch; khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn
năng lượng hoá thạch trong nước, chú trọng mục tiêu bình ổn, điều tiết và yêu
cầu dự trữ năng lượng quốc gia; ưu tiên phát triển điện khí, có lộ trình giảm
tỉ trọng điện than một cách hợp lý; chủ động nhập khẩu nhiên
liệu từ nước ngoài cho các nhà máy điện. Phân bổ tối ưu hệ thống năng lượng quốc gia trong tất cả các lĩnh
vực trên cơ sở lợi thế so sánh của từng vùng, địa phương.
- Chú trọng nghiên cứu, ứng dụng những thành tựu của cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư trong phát triển tất cả các phân ngành, lĩnh vực
năng lượng; đẩy mạnh chuyển đổi số trong ngành năng lượng; từng bước làm chủ
công nghệ hiện đại, tiến tới tự chủ sản xuất được phần lớn các thiết bị năng
lượng.
- Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ môi trường phải
được xem là quốc sách quan trọng và trách nhiệm của toàn xã hội. Tăng cường
kiểm toán năng lượng; xây dựng cơ chế, chính sách đồng bộ, chế tài đủ mạnh và
khả thi để khuyến khích đầu tư và sử dụng các công nghệ, trang thiết bị tiết
kiệm năng lượng, thân thiện môi trường, góp phần thúc đẩy năng suất lao động và
đổi mới mô hình tăng trưởng.
2. Mục tiêu
a) Mục tiêu tổng quát
Bảo đảm vững chắc an ninh
năng lượng quốc gia; cung cấp đầy đủ năng lượng ổn định, có chất lượng cao với
giá cả hợp lý cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, bảo đảm
quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống của nhân dân, góp phần bảo vệ môi trường
sinh thái. Ngành năng lượng phát triển hài hoà giữa các phân ngành với hạ tầng
đồng bộ và thông minh, đạt trình độ tiên tiến của khu vực ASEAN. Xây dựng thị
trường năng lượng cạnh tranh, minh bạch, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn
tài nguyên năng lượng trong nước kết hợp với xuất, nhập khẩu năng lượng hợp lý;
triệt để thực hành tiết kiệm và sử dụng hiệu quả năng lượng. Chủ động sản xuất
được một số thiết bị chính trong các phân ngành năng lượng; nâng
cấp, xây dựng lưới điện truyền tải, phân phối điện tiên tiến, hiện đại.
b) Một số mục tiêu cụ thể
- Cung cấp đủ nhu cầu năng
lượng trong nước, đáp ứng cho các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế xã
hội 10 năm 2021 - 2030; trong đó, năng lượng sơ cấp đến năm 2030 đạt khoảng 175
- 195 triệu TOE (tấn dầu quy đổi), đến năm 2045, đạt khoảng 320 - 350 triệu
TOE; tổng công suất của các nguồn điện đến năm 2030 đạt khoảng 125 - 130 GW,
sản lượng điện đạt khoảng 550 - 600 tỉ KWh.
- Tỉ lệ các nguồn năng
lượng tái tạo trong tổng cung năng lượng sơ cấp đạt khoảng 15 - 20% vào năm
2030; 25 - 30% vào năm 2045.
- Tổng tiêu thụ năng lượng
cuối cùng đến năm 2030 đạt mức 105 - 115 triệu TOE, năm 2045 đạt mức 160 - 190
triệu TOE. Cường độ năng lượng sơ cấp năm 2030 đạt từ 420 - 460 kgOE/1.000 USD
GDP, năm 2045 từ 375 - 410 kgOE/1.000 USD GDP.
- Xây dựng hệ thống lưới
điện thông minh, hiệu quả, có khả năng kết nối khu vực; bảo đảm cung cấp điện
an toàn, đáp ứng tiêu chí N-1 đối với vùng phụ tải quan trọng và N-2 đối với
vùng phụ tải đặc biệt quan trọng. Đến năm 2030, độ tin cậy cung cấp điện năng
thuộc tốp 4 nước dẫn đầu ASEAN, chỉ số tiếp cận điện năng thuộc tốp 3 nước dẫn
đầu ASEAN.
- Các cơ sở lọc dầu đáp ứng
tối thiểu 70% nhu cầu trong nước; bảo đảm mức dự trữ chiến lược xăng dầu đạt
tối thiểu 90 ngày nhập ròng. Đủ năng lực nhập khẩu khí tự nhiên hoá lỏng (LNG)
khoảng 8 tỉ m3 vào năm 2030 và khoảng 15 tỉ m3 vào
năm 2045.
- Tỉ lệ tiết kiệm năng
lượng trên tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng so với kịch bản phát triển bình
thường đạt khoảng 7% vào năm 2030 và khoảng 14% vào năm 2045.
- Giảm phát thải khí nhà
kính từ hoạt động năng lượng so với kịch bản phát triển bình thường ở mức 15%
vào năm 2030, lên mức 20% vào năm 2045.
3. Tầm nhìn đến năm
2045: Bảo
đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia; hình thành đồng bộ các
yếu tố thị trường năng lượng cạnh tranh, minh bạch, phù hợp với thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; các phân ngành năng lượng phát triển bền
vững, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi
khí hậu; hệ
thống hạ tầng năng lượng phát triển đồng bộ, hiện đại, khả năng kết nối khu vực
và quốc tế được nâng cao; chất lượng nguồn nhân lực, trình độ khoa học
- công nghệ và năng lực quản trị ngành năng lượng đạt trình độ tiên tiến của
một nước công nghiệp phát triển hiện đại.
III- NHIỆM VỤ VÀ GIẢI
PHÁP CHỦ YẾU
- Về dầu khí: Đẩy mạnh công tác tìm kiếm,
thăm dò nhằm gia tăng trữ lượng và sản lượng khai thác dầu khí tại các khu vực
tiềm năng, nước sâu, xa bờ gắn với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia trên
biển; nâng cao hệ số thu hồi, tận thu các mỏ nhỏ, khối sót cận biên. Rà soát,
có chiến lược chủ động và hiệu quả trong hợp tác về tìm kiếm, thăm dò và khai
thác dầu khí ở nước ngoài. Phát triển công nghiệp khí; ưu tiên đầu tư hạ tầng
kỹ thuật phục vụ nhập khẩu và tiêu thụ khí tự nhiên hoá lỏng (LNG). Tiếp tục
thu hút đầu tư trong lĩnh vực lọc - hoá dầu theo hướng chế biến sâu, nâng cao
chất lượng sản phẩm xăng dầu, chủ động đáp ứng tối đa nhu cầu trong nước và
hướng đến xuất khẩu. Đối với dầu khí đá phiến, khí hydrate (băng cháy), tích
cực nghiên cứu, đánh giá sâu hơn về địa chất và áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ
thuật để mở rộng phạm vi khảo sát; sớm triển khai đánh giá tổng thể, đẩy nhanh
khai thác thử nghiệm khi điều kiện cho phép.
- Về than: Xây dựng mới chiến lược
phát triển ngành than gắn với nhiệm vụ đầu tư hiệu quả ra nước ngoài và nhập
khẩu than dài hạn. Thực hiện dự trữ than phù hợp, đáp ứng yêu cầu cho các hoạt
động sản xuất, đặc biệt là sản xuất điện. Mở rộng tìm kiếm, thăm dò, nâng cao
chất lượng công tác đánh giá các cấp trữ lượng và tài nguyên. Đẩy mạnh khai
thác than trong nước trên cơ sở bảo đảm an toàn, hiệu quả và tiết kiệm tài
nguyên; khẩn trương nghiên cứu công nghệ để có thể khai thác bể than đồng bằng
Sông Hồng; nâng cao hệ số thu hồi than sạch trong khai thác hầm lò. Triển khai
nhanh việc xây dựng hệ thống cảng, kho dự trữ và trung chuyển than quy mô lớn;
tăng cường cơ giới hoá, hiện đại hoá thiết bị sàng, tuyển và khai thác than. Rà
soát, đánh giá nhu cầu, xây dựng kế hoạch và tối ưu hoá các giải pháp cung cấp
than ổn định cho sản xuất điện phù hợp với cơ chế thị trường.
- Về năng lượng tái
tạo: Xây
dựng các cơ chế, chính sách đột phá để khuyến khích và thúc đẩy phát triển mạnh
mẽ các nguồn năng lượng tái tạo nhằm thay thế tối đa các nguồn năng lượng hoá
thạch. Ưu tiên sử dụng năng lượng gió và mặt trời cho phát điện; khuyến khích
đầu tư xây dựng các nhà máy điện sử dụng rác thải đô thị, sinh khối và chất
thải rắn đi đôi với công tác bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế tuần hoàn.
Hình thành và phát triển một số trung tâm năng lượng tái tạo tại các vùng và
các địa phương có lợi thế. Sớm nghiên cứu, đánh giá tổng thể về tiềm năng và
xây dựng định hướng phát triển năng lượng địa nhiệt, sóng biển, thuỷ triều, hải
lưu; triển khai một số mô hình ứng dụng, tiến hành khai thác thử nghiệm để đánh
giá hiệu quả. Thực hiện nghiên cứu công nghệ, xây dựng một số đề án thử nghiệm
sản xuất và khuyến khích sử dụng năng lượng hydro phù hợp với xu thế chung của
thế giới.
- Về các nguồn năng lượng
khác: Kịp
thời nắm bắt các thông tin liên quan để nghiên cứu, phát triển trong điều kiện
cho phép về tiến bộ khoa học - kỹ thuật, nguồn nhân lực, khả năng tài chính và
những yếu tố cần thiết khác.
2. Phát triển nhanh và
bền vững ngành điện đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
- Xây dựng và triển khai
Chiến lược phát triển ngành điện lực Việt Nam cho giai đoạn mới. Phát triển
nhanh và bền vững các nguồn phát điện với cơ cấu và phân bố hợp lý, bảo đảm an
toàn, tin cậy, ổn định theo hướng đa dạng hoá, chú trọng nâng cao hệ số công
suất khả dụng và có dự phòng công suất phù hợp; đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ
môi trường sinh thái.
Đối với thuỷ điện: Huy động tối đa các nguồn
thuỷ điện hiện có. Phát triển có chọn lọc, bổ sung một số thuỷ điện nhỏ và vừa,
thuỷ điện tích năng. Có chiến lược hợp tác phát triển thuỷ điện gắn với nhập
khẩu điện năng dài hạn từ nước ngoài.
Đối với điện gió và điện
mặt trời: Ưu tiên phát triển phù hợp với khả năng bảo đảm an toàn
hệ thống với giá thành điện năng hợp lý. Khuyến khích phát triển điện mặt trời
áp mái và trên mặt nước. Xây dựng các chính sách hỗ trợ và cơ chế đột phá cho
phát triển điện gió ngoài khơi gắn với triển khai thực hiện Chiến lược biển
Việt Nam.
Đối với nhiệt điện: Khuyến khích các dự án
nhiệt điện đồng bộ từ khâu cung ứng, lưu trữ nhiên liệu và xây dựng nhà máy
trên cơ sở giá bán điện xác định thông qua đấu thầu. Phát triển nhiệt điện khí
theo hướng ưu tiên sử dụng nguồn khí trong nước. Chú trọng phát triển nhanh
nhiệt điện khí sử dụng LNG, đưa điện khí dần trở thành nguồn cung cấp điện năng
quan trọng, hỗ trợ cho điều tiết hệ thống.
Phát triển nhiệt điện than
ở mức hợp lý theo hướng ưu tiên những tổ máy công suất lớn, hiệu suất cao, sử
dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại như công nghệ siêu tới hạn trở lên; bảo đảm
thực hiện đầy đủ pháp luật về an toàn môi trường sinh thái, phù hợp với các
tiêu chuẩn quốc tế. Rà soát tổng thể và có kế hoạch sớm triển khai nâng cấp
công nghệ của các nhà máy điện than hiện có để đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi
trường; kiên quyết đóng cửa đối với các nhà máy không thực hiện nâng cấp công
nghệ theo quy định.
Đối với điện sinh khối, rác
thải và chất thải rắn: Khai thác tối đa nguồn điện sinh khối đồng
phát; tăng cường phát triển các nguồn điện từ rác thải đô thị, chất thải rắn và
sinh khối.
- Đầu tư hiện đại hoá ngành
điện từ khâu sản xuất, truyền tải đến phân phối đáp ứng yêu cầu phát triển của
thị trường điện, có khả năng tích hợp quy mô lớn nguồn năng lượng tái tạo; nâng
cao khả năng bảo đảm an ninh mạng lưới điện và chất lượng dịch vụ điện. Tích
cực thực hiện các chương trình quản lý nhu cầu điện và điều chỉnh phụ tải; quản
lý chặt chẽ hơn cường độ tiêu thụ điện năng; giảm thiểu tối đa tổn thất điện
năng; hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích và thúc đẩy triển khai tích
trữ điện năng. Hiện đại hoá hệ thống
điều độ điện, từng bước triển khai áp dụng những công nghệ giám sát kỹ thuật tự
động, thông minh; nghiên cứu ứng dụng truyền tải siêu cao áp, truyền tải một chiều trong ngành điện.
- Nghiên cứu, hoàn thiện
các cơ chế tài chính và huy động vốn đặc biệt cho đầu tư phát triển ngành điện.
Rà soát, điều chỉnh các quy định về kiểm soát và điều phối thị trường điện lực.
Có cơ chế cho phép phát triển các nhà máy điện sản xuất tại chỗ, tự cung cấp
trong các khu, cụm công nghiệp, khu chế xuất...
- Đẩy nhanh lộ trình
thực hiện thị trường điện cạnh tranh, cơ chế hợp đồng mua bán điện trực tiếp
giữa nhà sản xuất và khách hàng tiêu thụ, cơ chế đấu thầu, đấu giá cung cấp
năng lượng phù hợp, đặc biệt trong các dự án đầu tư năng lượng tái tạo, năng
lượng mới; minh bạch giá mua bán điện. Có cơ chế khuyến khích thu hút vốn ngoài nhà nước đầu tư xây dựng vào hệ thống
truyền tải điện quốc gia. Vận hành hệ thống truyền tải điện quốc gia độc lập
dưới sự kiểm soát của Nhà nước.
-
Cơ cấu lại các ngành tiêu thụ năng lượng, đặc biệt là khu vực đầu tư nước ngoài
để giảm thiểu cường độ năng lượng. Có chính sách khuyến khích phát triển các
ngành công nghiệp tiêu thụ ít năng lượng và có hiệu quả về kinh tế - xã hội.
- Rà soát, điều chỉnh
phân bố các nguồn tiêu thụ năng lượng linh hoạt theo hướng phân tán, hạn chế
việc tập trung quá mức vào một số địa phương, kết hợp chặt chẽ với phân bố lại
không gian phát triển công nghiệp và đô thị trên phạm vi cả nước, từng vùng và
địa phương.
- Rà soát, hoàn thiện
Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2020 - 2030. Triển khai áp
dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn bắt buộc kèm theo chế tài về sử dụng hiệu quả
năng lượng đối với những lĩnh vực, ngành và sản phẩm có mức tiêu thụ năng lượng
cao. Có chính sách khuyến khích các hộ tiêu thụ sử dụng năng lượng sạch, tái
tạo, nhất là trong công nghiệp và giao thông; thúc đẩy phát triển các phương tiện
giao thông sử dụng điện năng phù hợp với xu thế chung trên thế giới.
- Có chính sách ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng năng lượng bền
vững; chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng xuất, nhập khẩu năng lượng, kết nối khu
vực. Xác định danh mục hạ tầng năng lượng có thể dùng chung và xây dựng cơ chế
dùng chung phù hợp với cơ chế thị trường. Xoá bỏ mọi độc quyền, rào cản bất hợp
lý trong sử dụng cơ sở vật chất và dịch vụ hạ tầng năng lượng; có cơ chế, chính
sách đầu tư xây dựng hệ thống truyền tải điện, tách bạch với độc quyền nhà nước
về truyền tải điện.
Thực hiện xã hội hoá tối đa trong đầu tư và khai thác, sử dụng cơ sở vật chất,
dịch vụ ngành năng lượng, bao gồm cả hệ thống truyền tải điện quốc gia trên cơ
sở bảo đảm quốc phòng, an ninh.
- Thúc đẩy nhanh chuyển đổi
số trong ngành năng lượng; xây dựng và triển khai Chương trình quốc gia về phát
triển hạ tầng năng lượng thông minh; hoàn thiện cơ chế, xây dựng cơ sở dữ liệu,
thực hiện thống kê năng lượng quốc gia phục vụ công tác quản lý, điều hành hiệu
quả ngành năng lượng.
- Xây dựng cơ chế,
chính sách khuyến khích và hỗ trợ phát triển công nghiệp chế tạo và dịch vụ
phục vụ ngành năng lượng theo hướng tăng cường nội lực, hướng đến xuất khẩu; ưu
tiên phát triển các ngành chế tạo máy, thiết bị điện, dầu khí, dịch vụ dầu khí.
Hoàn thiện khung pháp lý, khuyến khích và đẩy mạnh triển khai mô hình các công
ty dịch vụ năng lượng. Khẩn trương xây dựng và thực thi các cơ chế, chính sách
khuyến khích nâng cao tỉ lệ nội địa hoá trong ngành năng lượng; bảo đảm thực
hiện tốt các yêu cầu, chỉ tiêu cụ thể về tỉ lệ nội địa hoá đối với các nhà máy
điện nói riêng và dự án năng lượng nói chung. Hoàn thiện chính sách đặt hàng
sản xuất của Nhà nước để khuyến khích các doanh nghiệp trong nước thực hiện
những công trình, dự án phức tạp, kỹ thuật cao trong ngành năng lượng đáp ứng
các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế.
- Cơ cấu lại toàn diện các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực
năng lượng theo hướng tập trung vào các lĩnh vực cốt lõi, có thế mạnh; tách
bạch chức năng kinh doanh với chức năng quản lý nhà nước; áp dụng các mô hình
và thông lệ quản trị tiên tiến, nâng cao hệ số tín nhiệm quốc tế, triệt để thực
hiện công khai, minh bạch hoá trong hoạt động; chú trọng nâng cao hiệu quả khai
thác, sử dụng hạ tầng năng lượng quốc gia. Hoàn thiện các quy định về đánh giá
các nguồn lực, tài sản phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn; xử lý, tái cơ
cấu triệt để các dự án, doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả, thua lỗ trong lĩnh
vực năng lượng. Nghiên cứu, triển khai thí điểm cơ chế bán có thời hạn hoặc cho
thuê dài hạn đối với các nhà máy điện, kho nhiên liệu, nhà máy lọc dầu... thuộc
sở hữu của doanh nghiệp nhà nước.
- Rà soát, bổ sung,
điều chỉnh các cơ chế, chính sách đặc thù cho một số dự án năng lượng quan
trọng, đặc biệt đối với các dự án đầu tư nguồn điện cấp bách; bảo đảm đầy đủ
vốn cho các doanh nghiệp năng lượng nhà
nước thực hiện các mục tiêu chiến lược và nhiệm vụ gắn với bảo đảm quốc phòng,
an ninh.
- Tạo lập môi trường
thuận lợi, minh bạch; công khai quy hoạch, danh mục các dự án đầu tư, xoá bỏ
mọi rào cản để thu hút, khuyến khích tư nhân tham gia đầu tư, phát triển các dự
án năng lượng trong và ngoài nước, chú trọng những dự án phát điện và các hoạt
động bán buôn, bán lẻ điện theo cơ chế thị trường. Tiếp tục khuyến khích, thu
hút đầu tư nước ngoài có quy mô, chất lượng và hiệu quả cho ngành năng
lượng. Đẩy
nhanh cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước thuộc ngành điện; xây dựng cơ chế
đầu tư thông thoáng, cải cách thủ tục hành chính để bảo đảm tiến độ các công
trình điện.
- Phát triển thị trường
năng lượng đồng bộ, liên thông giữa các phân ngành điện, than, dầu khí và năng
lượng tái tạo, kết nối với thị trường khu vực và thế giới. Xoá bỏ mọi rào cản
để bảo đảm giá năng lượng minh bạch do thị trường quyết định; không thực hiện
bù chéo giá điện giữa các nhóm khách hàng, giữa các vùng, miền; Nhà nước điều
tiết hợp lý thông qua các công cụ thị trường (thuế, phí, các quỹ…) và chính
sách an sinh xã hội phù hợp. Hoàn thiện cơ chế, chính sách, các công cụ có tính
thị trường để đẩy mạnh sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
- Rà soát, điều chỉnh
và hoàn thiện các chính sách về đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng, sử dụng
mặt nước, chống đầu cơ, trục lợi, lợi ích nhóm trong lĩnh vực năng lượng. Đổi
mới chính sách tài chính theo hướng khuyến khích, thu hút mạnh các nguồn vốn
đầu tư ngoài nhà
nước; khuyến khích các dự án đầu tư năng lượng theo hình thức đối tác công tư
(PPP). Thực hiện chính sách tín dụng linh hoạt, hiệu quả, tạo điều kiện thuận
lợi cho doanh nghiệp năng lượng tiếp cận các nguồn vốn, đặc biệt là các doanh
nghiệp có dự án năng lượng xanh. Hoàn thiện chính sách thuế khuyến khích sản
xuất, sử dụng năng lượng sạch, tái tạo. Xây dựng cơ sở pháp lý để có thể hình
thành và vận hành hiệu quả các quỹ về phát triển năng lượng bền vững, thúc đẩy
sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả theo hướng xã hội hoá, bảo
đảm độc lập về tài chính, không trùng lặp với nguồn thu, nhiệm vụ chi của ngân
sách nhà nước và hạn chế việc làm tăng chi phí hoạt động, sản xuất kinh doanh
cho doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh. Hoàn thiện cơ chế và thực
hiện chính sách về tiêu chuẩn tỉ lệ năng lượng tái tạo trong cơ cấu đầu tư và
cung cấp năng lượng.
- Sửa đổi, hoàn thiện các
luật chuyên ngành về dầu khí, điện lực, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu
quả và các luật khác liên quan đến ngành năng lượng để làm cơ sở thực hiện hiệu quả hơn cơ
chế thị trường. Nghiên cứu, thực hiện luật hoá việc điều hành giá
điện và một số ưu đãi cho dự án được khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực năng lượng. Hoàn thiện
khung pháp lý cho hoạt động kiểm soát và điều phối điện lực. Nghiên cứu, xây
dựng và ban hành luật về năng lượng tái tạo.
- Nâng cao chất lượng
công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch phát triển năng lượng, đặc biệt
trong phân ngành điện, bảo đảm tính ổn định, đồng bộ và linh hoạt, gắn kết với
chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương và một số ngành khác. Rà soát, điều chỉnh và sớm ban hành các quy hoạch
liên quan đến phát triển năng lượng theo Luật Quy hoạch.
7.
Phát triển khoa học - công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho
ngành năng lượng
- Hình thành cơ chế liên kết giữa lực lượng nghiên cứu và phát
triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo với các doanh nghiệp và các cơ sở
đào tạo trong lĩnh vực năng lượng thông qua các chương trình khoa học và công
nghệ; lồng ghép hoạt động nghiên cứu và phát triển trong các chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển năng lượng. Tạo cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp
năng lượng tăng cường đầu tư cho nghiên cứu và phát triển; thành lập các trung
tâm đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực năng lượng. Tiếp tục triển khai chương
trình khoa học và công nghệ trọng điểm quốc gia về nghiên cứu ứng dụng và phát
triển công nghệ năng lượng giai đoạn 2021 - 2030, trọng tâm là nghiên cứu chế
tạo thiết bị năng lượng và ứng dụng các dạng năng lượng mới, năng lượng tái
tạo, năng lượng thông minh, tiết kiệm năng lượng.
- Rà soát, sửa đổi, bổ sung các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia
trong lĩnh vực năng lượng phù hợp với các quy định, tiêu chuẩn quốc tế, có xét
đến các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia liên quan đến việc tái chế, sử dụng chất
thải từ quá trình sản xuất năng lượng. Từng bước áp dụng các biện pháp khuyến
khích và bắt buộc đổi mới công nghệ, thiết bị trong ngành năng lượng cũng như
những ngành, lĩnh vực sử dụng nhiều năng lượng.
- Xây dựng chính
sách phát triển nguồn nhân lực tổng thể và các chương trình đào tạo cho những
khâu then chốt của ngành năng lượng. Tăng cường đào tạo đội ngũ công nhân kỹ
thuật, nhân viên nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu sử dụng trong nước, hướng tới xuất
khẩu. Sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực đã được đào tạo về năng lượng hạt nhân
đi đôi với đào tạo nâng cao.
- Thực hiện chính sách
đối ngoại năng lượng linh hoạt, hiệu quả, bình đẳng, cùng có lợi. Mở rộng và
làm sâu sắc hơn hợp tác năng lượng với các đối tác chiến lược, đối tác quan
trọng. Tăng cường quan hệ quốc tế về năng lượng trong tất cả các phân ngành,
lĩnh vực phù hợp với xu thế hội nhập, tận dụng cơ hội từ các hiệp định thương
mại, các quan hệ chính trị - ngoại giao thuận lợi để phát triển năng lượng.
- Khẩn trương xây dựng
chiến lược nhập khẩu năng lượng dài hạn song song với khuyến khích đầu tư, khai
thác tài nguyên năng lượng ở nước ngoài để góp phần bảo đảm an ninh năng lượng
quốc gia; có cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư dự án năng lượng ở
nước ngoài, trước hết là với các dự án nguồn điện tại một số nước láng giềng để
chủ động nhập khẩu điện về Việt Nam. Mở rộng quan hệ đối tác với các công ty
đầu tư năng lượng, phát triển công nghệ năng lượng tiên tiến.
- Tích cực tham gia hợp
tác năng lượng tại tiểu
vùng Mê Công
mở rộng (GMS) và khu vực Đông Nam Á (ASEAN); liên kết lưới điện, hoàn
thiện cơ chế mua bán điện với
Trung Quốc, Lào và Cam-pu-chia. Tiếp tục nghiên cứu kết nối hệ thống khí trong
khu vực, triển khai thực hiện khi điều kiện cho phép.
- Nghiên cứu, xây dựng
chính sách thuế các-bon thích hợp đối với việc sử dụng nhiên liệu hoá thạch. Có
cơ chế, chính sách triển khai việc thu hồi, sử dụng khí CO2. Thực hiện đánh giá hiệu quả
việc sử dụng, tái chế tro, xỉ phát sinh trên cơ sở cân đối nhu cầu và khả năng
tiêu thụ làm vật liệu xây dựng, nhất là tại khu vực miền Nam.
- Hoàn thiện khung chính sách, xây dựng và bổ sung hệ thống tiêu
chuẩn, quy chuẩn quốc gia về khí thải và chất thải trong ngành năng lượng theo
hướng tiệm cận với những tiêu chuẩn của các nước phát triển. Bổ sung quy định
sàng lọc dự án đầu tư theo rủi ro về môi trường. Xây dựng quy chế tài chính về
môi trường, bảo đảm tính đủ các chi phí về môi trường, xã hội trong đầu tư và
giá thành sản phẩm. Tăng cường phòng ngừa, kiểm soát các đối tượng có nguy cơ
gây ô nhiễm môi trường cao; xử lý nghiêm các vi phạm về an toàn môi trường theo
quy định của pháp luật. Thông tin tuyên truyền kịp thời và đầy đủ về công tác
bảo vệ môi trường trong ngành năng lượng.
- Xây dựng và triển khai Đề án tích hợp mô hình kinh tế tuần hoàn
vào chiến lược phát triển các doanh nghiệp năng lượng. Phát triển hệ thống quản
lý và xử lý chất thải trong sản xuất năng lượng với công nghệ tiên tiến, phù
hợp với điều kiện nước ta; bảo đảm năng lực tự xử lý các nguồn thải trong các
doanh nghiệp năng lượng. Có cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển công
nghiệp môi trường gắn với ngành năng lượng.
- Rà soát, điều chỉnh
và bổ sung những nội dung liên quan đến ngành năng lượng trong Chiến lược quốc
gia về biến đổi khí hậu, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, Chiến
lược phát
triển bền vững Việt Nam, Chiến
lược biển Việt Nam và các chiến lược khác có liên quan.
- Nâng cao nhận thức của
các cấp uỷ đảng và cả hệ thống chính trị và nhân dân về vai trò, vị trí, tầm
quan trọng của ngành năng lượng. Các cấp uỷ đảng và chính quyền từ Trung ương
đến địa phương cần xác định phát triển năng lượng quốc gia là nhiệm vụ quan
trọng, xuyên suốt, nghiêm túc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Xây dựng cơ
chế và khung pháp lý bảo đảm cho việc tuân thủ quy hoạch phát triển năng lượng
quốc gia. Xử lý nghiêm đối với các dự án đầu tư chậm
triển khai, làm ảnh hưởng đến an ninh năng lượng quốc gia.
- Rà soát, hoàn thiện mô
hình quản lý nhà nước trong lĩnh vực năng lượng. Phân định rõ trách nhiệm,
quyền hạn, cơ chế phối hợp giữa Trung ương và địa phương, giữa các cơ quan quản
lý nhà nước trong phát triển năng lượng. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ
biến các văn bản quy phạm pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành và thực thi nghiêm
túc các quy định pháp luật về năng lượng. Thực hiện tốt vai trò định hướng, xây
dựng chính sách gắn với tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, hỗ trợ thực
hiện.
- Phát huy quyền làm chủ
của nhân dân; mở rộng sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức
chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp, các đối tượng chịu tác động của chính
sách vào quá trình xây dựng và giám sát thực hiện chiến lược, quy hoạch và
chính sách phát triển năng lượng quốc gia.
1. Các tỉnh uỷ, thành uỷ, các
ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương tổ chức học
tập, quán triệt Nghị quyết tới cán bộ, đảng viên; xây dựng chương trình, kế
hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết.
2. Đảng đoàn Quốc hội
lãnh đạo nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật để tạo
thuận lợi cho phát triển năng lượng quốc gia theo tinh thần của Nghị quyết; tăng cường giám sát việc
xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch và các chính sách phát
triển năng lượng quốc gia.
3. Ban cán sự đảng Chính
phủ lãnh đạo xây dựng và triển khai Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia
và các chiến lược phát triển các phân ngành năng lượng, Quy hoạch tổng thể năng
lượng quốc gia, Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia phù hợp với tinh thần
của Nghị quyết; ưu tiên bố trí đủ nguồn lực thực hiện các nhiệm vụ đã nêu trong
Nghị quyết; khẩn trương triển
khai các cam kết quốc tế trong việc nghiên cứu ứng dụng năng lượng hạt nhân cho
mục đích hoà bình; sớm tổng kết rà soát Luật Điện lực và các luật có liên quan
để trình Quốc hội sửa đổi những nội dung còn bất cập, nhất là vấn đề quy hoạch,
truyền tải điện.
4. Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát
việc thực hiện Nghị quyết.
5. Ban Tuyên giáo Trung ương
chủ trì phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương và các cơ quan liên quan hướng dẫn
việc quán triệt thực hiện Nghị quyết.
6. Ban Kinh tế Trung
ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan thường xuyên theo dõi, hướng
dẫn kiểm tra, giám sát, đôn đốc triển khai thực hiện Nghị quyết; định kỳ sơ
kết, tổng kết việc thực hiện, báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Nơi nhận: |
T/M BỘ CHÍNH TRỊ |
0 Nhận xét