Nhận thức về đối tác, đối tượng trong hội nhập quốc tế hiện nay

 Thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng đã và đang có nhiều vấn đề mới đặt ra. Trong đó, việc quán triệt và nhận thức đúng về đối tác, đối tượng theo quan điểm của Đảng có ý nghĩa quan trọng, cấp thiết.

Ảnh minh họa

Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là xu hướng chung của mọi quốc gia. Đứng ngoài xu thế đó, đất nước không thể phát triển và khó bảo vệ được vững chắc. Tất nhiên, Việt Nam không nằm ngoài xu thế đó. Tham gia vào tiến trình hội nhập quốc tế có cả mặt tích cực và tiêu cực, mặt tích cực là chủ yếu. Để tham gia đạt được hiệu quả, đòi hỏi chúng ta phải có chiến lược, kế hoạch tổng thể, xác định nội dung, lộ trình phù hợp; trong đó, nhận thức về đối tác, đối tượng là vấn đề rất quan trọng. Bởi lẽ, chỉ có như vậy, chúng ta mới xác định đúng giải pháp, phương châm chỉ đạo đối với các vấn đề về đối ngoại, đối nội, các tình huống phức tạp, nhạy cảm một cách hiệu quả trong quá trình hội nhập.

Trước đây, nhất là trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, quan điểm của Đảng ta về đối tác, đối tượng của cách mạng Việt Nam (bạn, thù) chỉ rõ ai là bạn, ai là thù. Hiện nay, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, quan hệ quốc tế có những phát triển mới, cho nên quan điểm về đối tác, đối tượng đòi hỏi tư duy mới, biện chứng, linh hoạt nhằm phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) của nhân dân ta. Trong các kỳ Đại hội Đảng gần đây, nhất là Đại hội XI, trực tiếp là Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về “Chiến lược BVTQ trong tình hình mới”, Đảng ta đã chỉ ra những nguyên tắc cơ bản để xác định đối tác, đối tượng một cách khách quan, khoa học, rất lô-gíc, biện chứng. Theo đó, quan điểm của Đảng ta về đối tác, đối tượng được xác định là: những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của chúng ta trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ đều là đối tượng. Quan điểm đó của Đảng ta là kết quả của cả quá trình 30 năm đổi mới, nhất là 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) và tiếp tục được Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về “Chiến lược BVTQ trong tình hình mới” khẳng định. Nội hàm quan điểm về đối tác, đối tượng là rất rõ ràng, đúng đắn, sáng tạo. Qua đó, thể hiện sự phát triển mới trong tư duy, nhận thức của Đảng và trở thành một trong những quan điểm chỉ đạo xuyên suốt của Chiến lược BVTQ trong tình hình mới.

Việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) không chỉ đòi hỏi phải nhận thức đúng đối tác, đối tượng theo nguyên tắc, tiêu chí quy định, mà điều quan trọng phải vận dụng đúng đắn quan điểm đó vào thực tiễn, trên các lĩnh vực, trong từng thời điểm và giai đoạn của cách mạng. Đặc biệt, cần thấy rõ tính biện chứng, sự tồn tại đan xen và chuyển hóa lẫn nhau rất linh hoạt giữa đối tác và đối tượng trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Trên cơ sở đó, có chủ trương, biện pháp tranh thủ mặt tích cực của mỗi đối tượng, hạn chế mặt tiêu cực của mỗi đối tác, phục vụ cho lợi ích của đất nước theo đúng quan điểm mà Nghị quyết đã nêu: “… trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”. Nói cách khác, kết hợp chặt chẽ hợp tác và đấu tranh là vấn đề cơ bản, có tính xuyên suốt không chỉ đối với “mỗi đối tượng” mà còn với cả các đối tác. Tuyệt đối tránh cách nhìn nhận, đánh giá phiến diện về đối tác, đối tượng. Nếu chỉ coi trọng việc thấy rõ mặt tích cực mà không thấy mặt tiêu cực cùng những mâu thuẫn của đối tác là không đúng. Tương tự như vậy, chỉ thấy mặt tiêu cực, những mâu thuẫn lại không thấy mặt tích cực, tương đồng của đối tượng cũng là sai. Tính biện chứng, sự đan xen phức tạp của đối tác, đối tượng là ở đó. Vì thế, chúng ta cần nghiên cứu thật kỹ, quán triệt thật sâu nội dung này. Bởi, đó là định hướng rất quan trọng để các cấp, ngành, lĩnh vực xử lý các vấn đề, các tình huống trong quan hệ hợp tác quốc tế một cách đúng đắn, linh hoạt, sáng tạo, tích cực, chủ động vừa hợp tác, vừa đấu tranh với từng đối tác, đối tượng trong từng thời điểm cụ thể một cách có hiệu quả. Qua đó, tăng mặt đồng thuận, giảm thiểu bất đồng trong quan hệ quốc tế nhằm mục tiêu vì lợi ích quốc gia, dân tộc, đưa nước ta không ngừng phát triển, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, góp phần giữ vững hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Điều đó cũng thống nhất với quan điểm, đường lối đối ngoại nhất quán của Đảng, Nhà nước ta là: “thêm bạn, bớt thù”, tăng cường hợp tác, gìn giữ môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước.

Cùng với đó, việc nhận thức về đối tác, đối tượng cần phải chú ý khách quan nhưng cũng rất linh hoạt trong từng thời điểm và giai đoạn của cách mạng. Trong quan điểm về đối tác, đối tượng, Đảng ta không chỉ ra ai là đối tác, ai là đối tượng cụ thể, nhưng không vì thế mà chung chung, không rõ ràng; trái lại, xác định rất rõ nội hàm “phạm trù” đối tác và đối tượng. Điều đó có nghĩa là, chúng ta luôn mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của mọi quốc gia vì lợi ích và sự phát triển của chính Việt Nam và cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, trong tình hình thế giới, khu vực, hội nhập quốc tế hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải hết sức tỉnh táo. Việc xác định có hay không có đối tác và đối tượng vĩnh viễn là vấn đề hết sức nhạy cảm, cần nghiên cứu, cân nhắc thấu đáo. Ngay trong những đối tác cũng có cấp độ quan hệ khác nhau, như: đối tác, đối tác toàn diện, đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện. Và ngay với đối tượng cũng vậy, có đối tượng trong thời điểm nhất định, có đối tượng cơ bản lâu dài. Thực tế đã cho thấy, trong quan hệ quốc tế, với một quốc gia cụ thể, ở thời điểm, giai đoạn này là đối tượng, nhưng vào thời điểm, giai đoạn khác lại có thể trở thành đối tác. Thậm chí không ít quan hệ đối tác, đối tác chiến lược giữa những nước có thể chế chính trị khác nhau, hoặc giữa những nước tồn tại tranh chấp chủ quyền với nhau. Ngược lại, không ít quốc gia, tuy có cùng ý thức hệ hoặc trước đây là đồng minh nhưng ở vào thời điểm cụ thể, lĩnh vực nhất định vẫn có thể là đối tượng. Tính chất đan xen, sự chuyển hóa giữa đối tác và đối tượng, trong đối tác có đối tượng và trong đối tượng có đối tác phức tạp là vì thế. Do đó, nhận thức và xử lý quan hệ về đối tác, đối tượng phải vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo quan điểm của Đảng vào thực tiễn, vừa trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc, vừa phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể, tránh áp dụng một cách máy móc, cứng nhắc làm tổn hại tới quan hệ với các nước, qua đó, tổn hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc. Để có nhận thức đúng về đối tác, đối tượng, chúng ta cần coi trọng công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, nhất là nghiên cứu, nắm vững tính chất, đặc điểm của từng đối tác, đối tượng, các khả năng, nguy cơ, thách thức có thể tác động trực tiếp tới hòa bình, ổn định của đất nước (cả trước mắt và lâu dài); từ đó, kịp thời tận dụng cơ hội để khai thác những điểm tương đồng; đồng thời, nhận rõ những điểm còn tồn tại, bất đồng, thách thức để hóa giải, chủ động đối phó, kiên quyết không để đất nước rơi vào thế bị động, bất ngờ hoặc đối đầu, cô lập.

Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có nhiều biến động, tiềm ẩn nguy cơ khó lường, nhất là diễn biến phức tạp về tranh chấp chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông, nguy cơ “diễn biến hòa bình” ngày càng gia tăng, chúng ta cần nhận thức đúng và có đối sách phù hợp để giải quyết hài hòa các mối quan hệ, các tình huống nhạy cảm về đối nội, đối ngoại. Cần thấy đâu là vấn đề thuộc về bất đồng, chủ trương, cách giải quyết, còn đâu là vấn đề thuộc về nguy cơ. Và điều quan trọng là ở chỗ phải đánh giá, nhận định cho được đâu là vấn đề có thể giải quyết được bằng biện pháp hòa bình để kiên trì đấu tranh lâu dài và đâu là vấn đề có quan hệ đến sự mất còn của chế độ, dân tộc và Tổ quốc. Ở đây, cần nhận thức sâu sắc rằng, âm mưu “diễn biến hòa bình” hòng lật đổ chế độ XHCN ở nước ta là mục tiêu xuyên suốt, không hề thay đổi của các thế lực thù địch. Trong điều kiện mới, chúng sẽ sử dụng nhiều thủ đoạn chống phá tinh vi, xảo quyệt đối với cách mạng nước ta; thúc đẩy mạnh mẽ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta và khi có điều kiện, thời cơ sẽ kích động bạo loạn lật đổ, gây mất ổn định chính trị, tạo cớ can thiệp từ bên ngoài bằng mọi hình thức, kể cả hành động quân sự, gây chiến tranh xâm lược. Do đó, các thế lực thù địch là đối tượng cơ bản lâu dài của cách mạng Việt Nam. Trong quan hệ, chúng ta phải hết sức tỉnh táo, để phòng, thực hiện vừa đấu tranh, vừa hợp tác một cách linh hoạt trên cơ sở giữ vững nguyên tắc chiến lược - độc lập dân tộc và CNXH. Đối với vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông giữa các quốc gia, trong đó có Việt Nam, quan điểm nhất quán của Đảng ta là kiên trì giải quyết bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế, các cam kết quốc tế, khu vực. Thực hiện vừa hợp tác, vừa đấu tranh có lý, có tình, tôn trọng lợi ích của các bên, nhưng kiên quyết bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ của mình; đồng thời, phản đối mọi hành động sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực để giải quyết các bất đồng, tranh chấp, gây tổn hại đến môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển trong khu vực.

Mặt khác, cũng cần thấy tính chất đan xen phức tạp về lợi ích trong quan hệ quốc tế hiện nay. Đặc biệt là sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng quyết liệt. Điều đó tác động, chi phối lớn đến môi trường an ninh và lợi ích của các quốc gia trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung, Biển Đông nói riêng. Thậm chí vì lợi ích của mình, họ sẵn sàng thỏa hiệp với nhau trên lưng các nước nhỏ. Cho nên, nhận thức đúng đối tác, đối tượng trong bối cảnh trên, nhất là ở vào những thời điểm cụ thể là không hề dễ dàng. Vì vậy, đòi hỏi chúng ta càng phải nghiên cứu sâu, quán triệt kỹ quan điểm của Đảng về đối tác, đối tượng để vận dụng đúng đắn, sáng tạo, hiệu quả trong thực tiễn.

MẠNH HÀ - QUANG CHUYÊN

Đăng nhận xét

0 Nhận xét

Ad Code

Responsive Advertisement